QUYỀN VÀ LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI TẠI ĐÀI LOAN SAU KHI CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM LAO ĐỘNG MỚI CỦA ĐÀI LOAN ĐƯỢC THỰC HIỆN
Wan ling Lee[1]
Tóm tắt:
Niên kim, cơ sở phát hành là chữ “niên” có nghĩa là năm trong sinh mệnh, có thể hiểu là nếu sinh mệnh kết thúc hoặc không tồn tại cũng có nghĩa là không còn tồn tại điều kiện phát hành. Trong khoản 3 điều 63 về luật bảo hiểm lao động có quy định, người được bảo hiểm tham gia đóng bảo hiểm trước thời gian thực hiện niên kim (trợ cấp bảo hiểm theo năm) có quyền nhận bảo hiểm theo. Theo quy định này, người thụ hưởng bảo hiểm ngoài việc có thể lĩnh số tiền bảo hiểm năm này theo từng tháng hoặc 1 lần theo chế độ niên kim. Thực hiện chế độ bảo hiểm theo niên kim, có thể tăng sự lựa chọn cho người thực hiện bảo hiểm, nhưng đồng thời lại không mang lại lợi ích mới cho người mới đóng bảo hiểm sau khi thực hiện quy định ví dụ như họ sẽ bị bị hủy quyền được lĩnh bảo hiểm 1 lần trong năm. Do thay đổi này liên quan đến các vấn đề như pháp lý cơ bản, quyền lợi ích của người thụ hưởng, bài viết này cho rằng vẫn còn nhiều khoảng trống cần phải đưa ra thảo luận trong thời điểm hiện nay.
Từ khóa: Niên kim bảo hiểm lao động, chi trả bảo hiểm tử vong, chi trả bảo hiểm tử vong đối với lao động nước ngoài, chính sách luật.
1. Vài nét về lịch sử hình thành chế độ bảo hiểm lao động niên kim đối với người lao động nước ngoài tại Đài Loan
Trong thời kỳ ban đầu, xã hội Đài Loan vẫn chưa nhận thức và hiểu rõ được về cái gọi là “niên kim”, mà chủ yếu chỉ có “lương hưu tháng” lưu hành trong hệ thống quân đội, công chức và giáo dục. Do đó, nó đã trở thành tham chiếu quan trọng đối với nhóm người lao động ủng hộ tiền trợ cấp theo chế độ niên kim (khoản tiền trợ cấp/hưu trả theo năm)[2]. International Labour Organization Công ước 102[3], công ước 128[4] của tổ chức lao động quốc tế đã xác định rất rõ ràng rằng: Tiền trợ cấp dành cho đối tượng người già, người tàn tật, gia đình người chết cần phải được trả định kỳ hàng năm đồng thời số tiền trợ cấp sẽ được điều chỉnh theo giá hoặc mức sống. Điều này cho thấy, tiền trả lương hưu của lao động trong thời kỳ đầu ở Đài Loan đã vi phạm công ước quốc tế. Năm 2008 sau khi thay đổi đảng cầm quyền, Mã Anh Cửu của Trung Hoa Dân quốc được bầu làm tổng thống, Vương Như Huyền được bầu là chủ nhiệm Ủy ban Lao động[5], tiếp tục đẩy mạnh duy trì lập pháp bảo hiểm lao động niên kim của Ủy ban Lao động. Trong tình huống đảng cầm quyền nắm đại đa số các vị trí trong quốc hội, luật lao động sửa đổi được chính thức lần thứ 3 thông qua vào ngày 17 tháng 7 năm 2008 và chính thức thực hiện chế độ bảo hiểm niên kim bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 năm 2009.
Mặc dù, thực hiện chế độ bảo hiểm niên kim chỉ là tăng một quyền lựa chọn cho người lao động trong hệ thống thanh toán bảo hiểm lao động, để họ có quyền lựa chọn 1 trong 2 quyền hoặc hưởng chế độ bảo hiểm 1 lần hoặc theo năm (niên kim). Trong khi đó, quyền lựa chọn 1 trong hai này lại chưa áp dụng cho người mới tham gia bảo hiểm sau khi quyết định thực hiện chế độ bảo hiểm niên kim thông qua (dưới đây gọi tắt là người mới tham gia bảo hiểm). Ví dụ đối với người mới tham gia bảo hiểm, người thân của họ chỉ được hưởng chế độ “niên kim” lĩnh hàng tháng mà không được lựa chọn quyền hưởng chế độ bảo hiểm 1 lần. Sự khác biệt về thể chế này đã nảy sinh một số khó khăn như nhân tố không gian và thời gian, cân bằng thu chi và hiệu lực pháp luật đồng thời cũng không thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu về sự lựa chọn của lao động. Như vậy, nó cũng có nghĩa rằng chế độ nhà nước muốn dần từng bước niên kim hóa để tất cả các đối tượng người cao tuổi đều có được thu nhập bình quân cơ bản nhằm ổn định chính sách xã hội.
Tất cả những khái niệm về niên kim đã nói ở trên chính là Niên kim, với chữ ‘niên’ có nghĩa là năm trong sinh mệnh làm cơ sở phát hành có thể hiểu là nếu sinh mệnh kết thúc hoặc không tồn tại cũng có nghĩa là không còn tồn tại điều kiện phát hành. Nếu sinh mệnh kết thúc, cái gọi là “tử” và không tồn tại điều kiện phát hành niên kim. Tuy nhiên, nội dung sửa đổi luật bảo hiểm lao động số 09700153201 ngày 13 tháng 8 năm 2008 Trung Hoa Dân quốc do tổng thống công bố ngày 13 tháng 8 năm 2008 chính thức thực hiện ngày 1 tháng 1 năm 2009 có thay đổi như sau: Đối với người thừa kế - thân quyến của đối tượng đóng bảo hiểm chưa đủ 1 năm sẽ nhận được số tiền trợ cấp 1 lần 10 tháng tính từ bình quân số tiền đã đóng bảo hiểm hàng tháng; Đối với thân quyến của đối tượng đóng bảo hiểm trong thời gian từ 1 đến 2 năm sẽ được nhận trợ cấp 1 lần bằng 30 tháng đóng bảo hiểm tính từ bình quân số tiền đã đóng bảo hiểm hàng tháng. Sửa đổi theo nội dung luật mới khoản 1 điều 63 khi người hưởng bảo hiểm qua đời trong thời gian đang đóng bảo hiểm, ngoài số tiền trợ cấp chi phí tang lễ, người thân của họ lần lượt bao gồm vợ hoặc chồng, con cái, bố mẹ, ông bà, cháu chắt hoặc anh em thuộc quyền nhận nuôi dưỡng của người đóng bảo hiểm sẽ được nhận số tiền trợ cấp niên kim.
Đối với những đối tượng đóng bảo hiểm trước khi thực hiện quy định tại Khoản 3 của điều 63, bản sửa đổi ngày 17 tháng 7 năm 2008, người thân của họ ngoài việc nhận được số tiền trợ cấp niên kim như quy định nêu trên, còn có quyền được nhận trợ cấp 1 lần mà không bị hạn chế bởi các điều kiện quy định tại Khoản 1. Đồng thời, người thụ hưởng bảo hiểm không được thay đổi sau khi cơ quan chịu trách nhiệm chi trả bảo hiểm đã hoàn tất thủ tục thanh toán, có nghĩa là không được đổi từ chế độ nhận trợ cấp 1 lần sang trợ cấp niên kim hàng tháng. Do sự thay đổi này liên quan tới một số nội dung pháp lý cơ bản về quyền lợi của người thụ hưởng bảo hiểm (người thân của người đóng bảo hiểm) nên tác giả cho rằng vẫn có những khoảng trống cần đưa ra thảo luận như nội dung bài báo dưới đây sẽ nêu ra cụ thể.
2. Nội dung chế độ bảo hiểm niên kim dành cho người lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan
Có thể đưa ra nhận định khái quát rằng việc thực hiện chế độ bảo hiểm “niên kim” sẽ tạo sự khác biệt giữa cái cũ và cái mới và có tác động sâu sắc đến quyền và lợi ích của người lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan. Điều này được thể hiện ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, lao động tham gia bảo hiểm theo chế độ cũ, người thân thụ hưởng bảo hiểm sẽ được nhận số tiền bảo hiểm một lần.
Bảo hiểm lao động vốn là một phần trong gói phúc lợi lao động, có mục đích chính sách xã hội thực tiễn và đặc tính của bảo hiểm bắt buộc theo quy định pháp luật. Nó được vận hành và lãnh đạo bởi cơ quan Bảo hiểm Lao động Quốc gia. Sau khi thực hiện chế độ niên kim, hạn chế yêu cầu xin cấp trợ cấp dành cho người thân (trợ cấp một lần) đối với với mới đóng bảo hiểm, chế độ này đã hạn chế đồng thời giảm lợi ích đối với người thân của người đóng bảo hiểm. Bởi vì sự chi trả theo chế độ niên kim tồn tại rủi ro đồng thời cũng tạo thành khó khăn đối với yêu cầu xin bảo hiểm theo chế độ niên kim của người thân. Nếu người thụ hưởng qua đời trong thời gian đang lĩnh khoản bảo hiểm này tức quyền nhận bảo hiểm của họ trong năm đó cũng bị hủy theo. Do đó, có khả năng dẫn tới tình trạng họ không thể lĩnh được một phần số tiền lĩnh theo năm theo dự định ban đầu với nguyên nhân thuộc về số mệnh.
Ví dụ, Cục Bảo hiểm Lao động sẽ đem khoản trợ cấp một lần của người thụ hưởng (giả định 600.000) chuyển thành thành niên kim rồi thanh toán theo tháng. Mà thiết kế của hệ thống này lại hàm chứa cả rủi ro đối với người thụ hưởng. Giả thiết đưa ra rằng, số lượng tiền của đơn vị phụ trách chi trả bảo hiểm sẽ được quyết định với lý do người thụ hưởng (người thân của lao động tham gia đóng bảo hiểm) có sinh mệnh dài hay ngắn, rõ ràng đây là tổn thất thứ hai của gia đình người thân lao động đã mất.
Những người lập pháp muốn thực hiện chế độ niên kim nhằm động viên những người tham gia bảo hiểm xin lĩnh trợ cấp bảo hiểm theo năm, tránh tình trạng người già không có được sự chăm sóc thỏa đáng cho tới cuối đời sau khi đã lĩnh trợ cấp một lần. Do đó, đối với người được bảo hiểm đã lĩnh bảo hiểm trước ngày 01/01/2009, cơ quan lập pháp thiết lập chế độ đối với người mất khả năng lao động hoặc tử vong trong thời gian hưởng lương hưu, bảo đảm người thừa kế được lĩnh lại tiền tương đương với khoản trợ cấp 1 lần. Trường hợp người được bảo hiểm tử vong trong thời gian lĩnh lương mất khả năng lao động hoặc lương hưu người cao tuổi, sẽ căn cứ vào khoản 2 điều 63.1 của quy định này, người thừa kế được lĩnh tiền chênh lệch của khoản tiền lương mất khả năng lao động hoặc lương hưu người cao tuổi sau khi trừ đi số tiền lương hưu mà người được bảo hiểm đã được lĩnh, bảo đảm được lĩnh số tiền tương đương với khoản trợ cấp hưu một lần. Tuy nhiên, khoản phúc lợi này chỉ hạn chế với người tham gia bảo hiểm theo chế độ cũ, những người tham gia bảo hiểm theo chế độ mới không được tính trong quy định này.
Thứ hai, mức trợ cấp bình quân của người thụ hưởng đảm bảo ở mức 3.000 Đài tệ có thể không phù hợp với yêu cầu cơ bản của người thân lao động.
Ủy viên lập pháp Khóa VI, khóa VII Đài Loan và các học giả chủ trương tăng thêm lý do lập pháp về niên kim đối với người thân lao động đã tử vong, chủ yếu tham khảo những ví dụ về việc chi trả niên kim cho gia đình lao động tử vong có quốc tịch nước ngoài. Với đối tượng người tử vong trong trường hợp đang lĩnh bảo hiểm mất sức lao động hoặc lương hưu sẽ chuyển sang cho người thân lĩnh theo chế độ niên kim để bảo đảm cuộc sống cho họ.
Người viết đã tham khảo Công ước lao động quốc tế, mức chi trả như sau: Người trụ cột trong gia đình đã tử vong, quả phụ nuôi hai con nhỏ sẽ nhận được mức trợ cấp là “45% số tiền lương mà người trụ cột gia đình đó được hưởng khi còn sống”. Ngược lại việc chi trả cho gia đình người chết nước ta được tính như sau: người xin lĩnh bảo hiểm niên kim theo mục 1 khoản 2 của điều thứ 63 của bảo hiểm lao động quy định sẽ được tính 1,55% của số tiền lao động đã nộp bảo hiểm tính tròn năm và chia bình quân theo tháng. Hai chế độ có hai mức lĩnh khác biệt là 45% và 1.55%, có thể thấy cũng là mức bình thường. Nếu nói lập pháp này tham khảo các ví dụ về tri trả niên kim cho gia đình lao động ở các quốc gia khác, người viết cho rằng cái mà nó đi theo mới chỉ là cái tên gọi trong khi bản chất vì những yêu cầu nghiêm ngặt và hà khắc của nó vẫn không khiến cho gia quyến của lao động thụ hưởng chế độ chi trả hợp lý.
Theo quy định tại nội dung 1 Điều 63 khoản 2-2, người xin lĩnh trợ cấp niên kim, số tiền người đóng bảo hiểm cứ tròn năm sẽ được tính là 1,55 của số tiền tính bình quân theo tháng. Người mới tham gia bảo hiểm năm 2009 với thời gian chưa đầy 8 tháng, giả thiết số tiền tham gia bảo hiểm của công nhân là 20000 ngàn Đài tệ, chúng ta có thể lấy 20.000 đài tệ nhân với hệ số 1,55% sẽ ra số tiền lĩnh hàng tháng là 2480 Đài tệ (khi số tiền trợ cấp của người nhà của công nhân chưa đủ 3000 Đài tệ, họ sẽ được nhận số tiền làm tròn là 3000 đài tệ).
Theo công ước lao động quốc tế[6], đối với góa phụ của công nhân trụ cột gia đình có 2 con sẽ nhận được 45% số tiền của lao động đó khi còn sống. Nếu lấy số tiền lao động đó đã đầu tư vào bảo hiểm là 20.000 Đài tệ, thì số tiền sẽ được tính là 20000 * 45% = 9000 Đài tệ. Nếu số tiền đóng bảo hiểm cao hơn 20.000 đài tệ, ví dụ như với con số 40.000 Đài tệ, ta có số tiền trợ cấp tính ra 40000*45% = 18000 Đài tệ, có sự chênh lệch rất lớn. Như vậy, mức trợ cấp bảo hiểm bình quân mà người nhà lao động được lĩnh là 3000 quả thực là con số quá ít ỏi.
Thứ ba, thủ tục xin lĩnh bảo hiểm của lao động nước ngoài rất phức tạp và lại có thêm phí thủ tục hành chính.
Trong năm 2009, sau khi thực hiện chế độ niên kim, đối với việc xin lĩnh và công tác chi trả bảo hiểm hàng năm của lao động không mang Quốc tịch Đài Loan, người xin lĩnh phải có đủ đáp ứng được các điều kiện xin lĩnh bảo hiểm. Đối tượng lao động đóng bảo hiểm, người thân của họ sau khi xin lĩnh bảo hiểm niên kim về nước, định kỳ chịu sự kiểm tra của chủ quản có văn bản thẩm tra thông qua của Cục Bảo hiểm Lao động bằng tiếng Trung và bản dịch trong quá trình xin lĩnh bảo hiểm hàng năm. Thủ tục rườm rà, đồng thời chịu thêm các chi phí thủ tục kiểm tra, chuyển khoản có liên quan.
Căn cứ theo tài liệu của Cục Bảo hiểm lao động, tổng số những người tham gia bảo hiểm tử vong trong khoảng thời gian giữa năm 2016 có tất cả là 330 người. Trong đó có 167 người phù hợp với điều kiện có thể xin lĩnh bảo hiểm một lần và lĩnh được tổng số tiền là 68,934,925 Đài tệ, bình quân mỗi hồ sơ nhận được 412784 Đài tệ. Chủ nhiệm ủy ban lập pháp đã chỉ ra rằng, do chế độ hộ tịch tại nước bản địa của các lao động nước ngoài chưa được kiện toàn như của Đài Loan, hơn thế sau khi trừ chênh lệch tỉ lệ hối đoái, tiền bảo hiểm niên kim mà họ lĩnh được không còn được bao nhiêu. Có người một tháng lĩnh được 3000 Đài tệ, sau khi trừ chênh lệch tỉ giá hối đoái thì chỉ còn lĩnh được khoảng 2-300 Đài tệ. Những con số chi phí phát sinh ngoài như vậy đối với lao động mà nói thực sự là một thiệt thòi rất lớn.
Thứ tư, người lao động nước ngoài trả phí bảo hiểm lao động tại Đài Loan, không thể nhận trợ cấp tuổi già ở tuổi 60.
Theo khuôn khổ pháp lý Đài Loan, trợ cấp bảo hiểm lao động dành cho người già và tiền lương hưu của công nhân chính là 2 phần chính bảo đảm cuộc sống của người lao động cao tuổi. Theo quy định tại khoản 1 điều 58 luật bảo hiểm lao động, về mặt nguyên tắc, người đóng bảo hiểm lao động đủ 15 năm trở lên là có thể xin lĩnh tiền trợ cấp dành cho người già, mà điều luật bảo hiểm lao động này lại không loại trừ việc áp dụng cho lao động nước ngoài. Do đó, về lý mà nói, lao động nước ngoài vẫn có khả năng nhận xin lĩnh bảo hiểm lao động. Tuy nhiên, do lao động nước ngoài đến Đài Loan thường phải ký hợp đồng 3 năm một lần, tổng thời gian lao động tại Đài Loan không quá 12 năm[7], việc này đồng nghĩa với việc lao động nước ngoài không đủ điều kiện để được chi trả trợ cấp bảo hiểm lao động.
Sau khi triển khai bảo hiểm lao động theo chế độ niên kim, đối tượng những người đóng bảo hiểm trước khi luật sửa đổi tại thời điểm ngày 17 tháng 7 năm 2008 là những người phù hợp với quy định như sau: Ngoài số tiền bảo hiểm dành cho người già được chi trả theo quy định trước đây, họ có thể lựa chọn xin lĩnh bảo hiểm theo chế độ chi trả một lần. Nói ngược lại thì theo luật, những người mới tham gia bảo hiểm sau thời điểm nêu trên đều không thể xin lĩnh trợ cấp một lần. Phần bị thiệt thòi của họ, nếu như tính bình quân là hai vạn Đài tệ, tức là 2 vạn tệ với số năm công tác. Ví dụ công tác 12 năm tức là 24 vạn. Thực hiện chế độ niên kim, công nhân tham gia bảo hiểm lao động ở chế độ mới và chế độ cũ sẽ có chênh lệch giữa con số không với con số 24 vạn Đài tệ.
Thứ năm, việc chi trả theo chế độ bảo hiểm niên kim sẽ tồn tại rủi ro về điều kiện của người thụ hưởng và thời gian lĩnh bảo hiểm.
Cục Bảo hiểm Lao động Đài Loan chịu trách nhiệm về việc vận hành cơ chế chi trả bảo hiểm và có mục đích đảm bảo sự sống còn và ổn định của người lao động. Đây là cách mà nhà lập pháp dự định chia sẻ những rủi ro cộng đồng bằng cách soạn thảo văn bản đồng nhất về rủi ro và một số lượng lớn các quy tắc có liên quan. Tất cả quyền và lợi ích của mỗi công nhân đều phải công bằng, không nên tùy tiện dựa trên các chính sách xã hội mà bắt gánh nặng của lao động mới tham gia đóng bảo hiểm và người thân gánh chịu rủi ro mà họ không liên quan hay những chi phí không cần thiết. Bởi vì việc chi trả theo niên kim tồn tại rủi ro về điều kiện của người thụ hưởng và thời gian lĩnh, ví dụ, nếu người được bảo hiểm đóng bảo hiểm tại một công ty hoặc công đoàn chuyên nghiệp, người đó sẽ bị hạn chế bởi một số điều kiện về lĩnh bảo hiểm[8]. Đối tượng người thân của họ có quyền xin lĩnh khoản tiền bảo hiểm niên kim nếu qua đời trong thời gian đang lĩnh bảo hiểm, quyền thụ hưởng bảo hiểm của họ cũng bị mất theo cùng trong năm đó. Vậy những người thân có quyền thụ hưởng khoản bảo hiểm trên có thể sẽ không được hưởng một phần số tiền đáng lẽ được nhận do sinh mệnh của họ kết thúc sớm.
3. Các đề xuất sửa đổi chế độ bảo hiểm lao động niên kim trong pháp luật Đài Loan
Hiện tại, các nhà lập pháp của Đài Loan đã đề xuất sửa đổi luật và tìm kiếm một khoản thanh toán một lần cho bảo hiểm tử vong đối với người lao động nước ngoài. Bắt đầu từ năm 2009, dù là lao động Đài Loan hay lao động quốc tịch nước ngoài, lần đầu tiên tham gia bảo hiểm lao động chỉ có thể áp dụng theo chế độ “Annuity/niên kim”. Tiền trợ cấp cho gia đình của lao động nước ngoài tử vong đều phải lĩnh theo tháng và không thể xin lĩnh theo chế độ “một cục” trong khi tất cả các lao động nước ngoài và gia đình của họ đều hi vọng được lĩnh “trợ cấp một lần”. Chủ tịch Ủy ban lập pháp, Tương Nãi Tân với tâm ý phục vụ đối tượng người lao động nước ngoài và các cử tri đã truyền đạt ý dân trong đề xuất tại viện Lập pháp năm 2012, cụ thể tại bản dự thảo điều 27-1 trong điều luật bảo hiểm lao động và được đọc thông qua lần thứ nhất vào ngày 16 tháng 3 năm 2012; hoàn tất kiểm tra đánh giá của Ủy ban thường trực từ ngày 17 đến hết ngày 31 tháng 3 năm 2012; Ngày 20 tháng 5 năm 2014, đọc thông qua thảo luận các nhóm đảng, cho tới ngày 20 tháng 1 năm 2015, ngày 23 tháng 1 năm 2015 đều đã đưa giải quyết sau khi bàn bạc nhưng vẫn chưa đưa ra được kết luận chung.
Trong đề xuất Dự thảo Quy chế bảo hiểm lao động Điều 27-1, Bộ Lao động cũng đã tỏ ý ủng hộ việc cho phép đối tượng lao động người nước ngoài được xin thanh toán một lần với nội dung bảo hiểm mất khả năng lao động, hưu trí hoặc tử vong, cho người khuyết tật, tuổi già hoặc tử vong để yêu cầu thanh toán một lần. Tuy nhiên, đây vẫn là đề nghị sửa đổi ở trong giai đoạn đọc thứ hai chờ đệ trình quyết định. Đồng thời liên đoàn lao động cho rằngnếu chỉ cho phép lao động nước ngoài áp dụng quy định lĩnh bảo hiểm một lần là vi phạm nhân quyền, trừ phi sửa đổi cho công nhân nước ngoài được tự lựa chọn xin lĩnh bảo hiểm theo niên kim hay chế độ một lần. Căn cứ theo quy định hành pháp trong thẩm quyền của viện lập pháp, mỗi lần hết nhiệm kỳ Ủy ban lập pháp sẽ không đề cập lại những bản đề xuất mà nhiệm kỳ trước chưa thông qua[9]. Bản dự thảo này vốn đã thông qua lần đọc thứ hai[10] đã được sự đồng ý của Bộ Lao động trong ghi chép hội nghị của Viện lập pháp, nhưng lại sợ lao động người Đài Loan cũng muốn giành quyền lợi này nên mới bị từ bỏ.
Một trong những nội dung đề xuất sửa đổi chế độ bảo hiểm lao động niên kim của Đài Loan, cả công nhân mới và cũ đều có nghĩa vụ nộp thuế và trả phí bảo hiểm lao động, do vậy không nên có sự khác biệt về quyền lợi xin thanh toán.
Mục đích và lý do việc xin lĩnh trợ cấp tử vong của người nhà lao động hầu hết đều tương tự như nhau. Nếu xuất phát từ bản chất con người, trên nguyên tắc đãi ngộ của Trung Hoa dân quốc, đối với bảo hiểm và an sinh xã hội, tất cả mọi công nhân không kể là đối tượng cũ hay mới đều phải đóng thuế và bảo hiểm xã hội. Lấy đó làm cơ sở, khi lao động xin thanh toán các khoản, về lý là phải không có sự khác biệt nào. Lấy ví dụ trong trường hợp người thân lao động xin lĩnh trợ cấp sau khi lao động tử vong: Đều là lao động, đều đi làm vất vả và đóng phí bảo hiểm xã hội như nhau, nhưng người nhà của lao động đóng bảo hiểm theo chế độ cũ có thể lựa chọn quyền xin thanh toán một lần. Trong khi đó, người mới tham gia bảo hiểm lại bị hạn chế rằng gia quyến của họ chỉ được lĩnh số tiền bảo hiểm năm (niên kim) số tiền là 3000 Đài tệ. Số tiền trợ cấp quá ít ỏi này căn bản không đạt được mục đích chăm sóc lao động. Hơn thế nữa, thiết kế của hệ thống thanh toán niên kim tiềm ẩn cả rủi ro đối với người thụ hưởng. Đối với đối tượng người thân có quyền được xin thanh toán bảo hiểm theo chế độ niên kim, nếu họ qua đời sớm trong thời gian đang hưởng bảo hiểm, cũng tức là quyền nhận trợ cấp bảo hiểm năm đó của họ cũng bị mất. Do đó, có khả năng sự dài ngắn của sinh mệnh có thể dẫn đến việc người có quyền thụ hưởng bảo hiểm không lĩnh được một phần tiền mà nếu lĩnh theo chế độ một lần họ đã có thể nhận được. Các nhà lập pháp của bảo hiểm xã hội Đài Loan muốn chia sẻ rủi ro chung trên cơ sở thông qua sự thống nhất về rủi ro cùng tính chất trên quy mô lớn. Do đó, quyền lợi của mỗi công nhân phải đạt được mức độ công bằng và thống nhất chứ không nên tùy ý dựa trên chính sách xã hội, tăng gánh nặng và rủi ro không đáng có cho lao động mới tham gia bảo hiểm và gia đình của họ.
Ngoài ra, đối với việc xin và tiếp tục phát trợ cấp niên kim đối với đối tượng lao động không có quốc tịch Trung Hoa Dân quốc, gia đình người thân của lao động nước ngoài vẫn phải định kỳ chịu sự kiểm tra của chủ quản, hơn thế phải có văn bản thẩm tra thông qua của Cục Bảo hiểm Lao động bằng tiếng Trung và bản dịch trong quá trình xin lĩnh bảo hiểm hàng năm. Thủ tục xin phép quá rườm ra cần phải chịu thêm phí kiểm tra đối chiếu và phí thủ tục chuyển khoản. Đối với người nhà lao động mà nói, đây là một khoản chi thực sự thiệt thòi cho họ. Sau khi thực hiện chế độ niên kim với bảo hiểm lao động đã tạo nên một số vấn đề bất lợi cho người mới tham gia bảo hiểm như đãi ngộ khác biệt, vi phạm một cách rất rõ ràng nguyên tắc công bằng.
4. Kết luận
Hệ thống thanh toán bảo hiểm lao động cũ có thể cung cấp dịch vụ thanh toán một lần cho người thụ hưởng; sau khi thực hiện chế độ niên kim lại cung cấp cho họ thêm một lựa chọn nữa về cách thức thanh toán bảo hiểm. Đối với lao động mà nói, đó chính là tăng phúc lợi. Cơ cấu lập pháp cần phải đảm bảo đời sống lao động của nhân dân, thận trọng duy trì bảo vệ quyền lợi chi trả bảo hiểm lao động quan trọng này, phù hợp với nhu cầu của nhân dân. Hiện nay, sự khác biệt trong chi trả với trường hợp người lao động mới đóng bảo hiểm và đã đóng bảo hiểm từ trước quy định niên kim khi họ qua đời đã phá vỡ kỳ vọng về sự hợp lý trong chi trả bảo hiểm lao động của người dân Đài Loan.
Việc thực hiện hệ thống bảo hiểm lao động mới theo chế độ niên kim dù có liên quan đến các mục tiêu chính sách xã hội và cân nhắc tới việc phân phối lại xã hội thì cũng vẫn phải tuân theo nguyên lý và nguyên tắc của bảo hiểm. Nếu không, nó sẽ vi phạm tính công bằng do thiếu tính hợp pháp, phá vỡ nguyên tắc bảo hiểm, ảnh hưởng tới sự vận hành cân bằng của hệ thống bảo hiểm nói chung. Những vấn đề bất lợi cho quyền lợi lao động mới tham gia bảo hiểm cần phải được cơ quan lập pháp thảo luận sửa đổi để có những bước cải tiến cụ thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Quách Minh Chính, nguyên tắc và trọng điểm quy hoạch niên kim bảo hiểm 2006, song nguyệt san lao động, kỳ 3, trang 45-51.
- La Tuấn Vĩ. “Xem xét các vấn đề về lương hưu của người lao động” Song nguyệt san lao động Đài Loan, kỳ 4 trang 53-65 năm 2006.
- Công báo viện lập pháp, Tưởng Nãi Tân cùng 24 người đề xuất “Dự thảo sửa đổi thêm một điều trong điều 27 điều lệ bảo hiểm lao động”, ghi chép của ủy ban trang 8-9, kỳ 20 cuốn 103 (4129).
- Chung Bỉnh Chánh. “Nhận xét ngắn gọn về diễn giải giải thích của Chánh án số 596”, bao gồm trong Luật xã hội và Bảo vệ quyền cơ bản, trang 352-355, năm 2010.
- Liêu Dục Tằng. bàn luận xem xét về các sự kiện pháp luật và vai trò của các Ủy viên, trang tự do bình luận, địa chỉ: http://talk.ltn.com.tw/article/breakingnews/1634984.
[1] Tác giả hiện là người phụ trách ở tổ chức nghề đại lý quảng cáo thành phố Tân Cao và công ty khoa kỹ Di Gia. Phương thức liên lạc: email: cindy8127@mail2000.com.tw. Điện thoại: 07-8313385.
[2] Quách Minh Chính, giáo sư đại học Chính trị trong bài tham luận ở Song Nguyệt San Đài Loan kỳ thứ 3 đã nói đến vấn đề cốt lõi của trợ cấp một lần vốn là: xác định chi trả một lần của khoản trợ cấp.
[3] Trong công ước quốc tế do tổ chức lao động Quốc tế sáng lập ra, các vấn đề liên quan đến an sinh xã hội đều có tỉ lệ tương ứng. Trước chiến tranh thế giới thứ 2, công ước chung của tổ chức lao động quốc tế chủ yếu đề cập đến các vấn đề quy định đối với nguy hiểm và sự cố bất trắc. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1952 đã thông qua công ước (số 102) là công ước cơ bản nhất về an sinh xã hội, là tổng kết kinh nghiệm lập pháp về an sinh xã hội quốc tế trong suốt nửa thế kỷ trước, có vị trí quan trọng trong lập pháp an sinh xã hội quốc tế. Điều luật này đã đặt ra nền móng cơ sở nhất về an toàn lao động, thiết lập an sinh xã hội như một hệ thống phổ thông với 9 dự án được công nhận rộng rãi lần lượt là: bảo hiểm y tế, trợ cấp bệnh tật, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp người cao tuổi, trợ cấp công việc, trợ cấp gia đình, trợ cấp thai sản, trợ cấp tàn phế và trợ cấp cho người thân của lao động tử vong. Việc thực hiện công ước số 102 các điều khoản công ước về an sinh xã hội cho mới được sửa đổi, bổ sung, phát triển và hoàn thiện. La Tuấn Vĩ. “Xem xét các vấn đề về lương hưu của người lao động” Song nguyệt san lao động Đài Loan, kỳ 4 trang 57 tháng 11 năm 2006.
[4] Công ước tổ chức lao động Quốc tế (Số 128). Công ước này đã thông qua vấn đề trợ cấp ốm đau, người già và gia đình người thân, quy định chế độ bảo hiểm hưu trí bao gồm bảo đảm người già, bảo hiểm người tàn tật và bảo hiểm cho ngưởi thân, lựa chọn nguyên tắc căn bản nhất và bảo đảm phổ biến nhất. La Tuấn Vĩ. “Xem xét các vấn đề về lương hưu của người lao động” Song nguyệt san lao động Đài Loan, kỳ 4 trang 57 tháng 11 năm 2006.
[5] Ủy ban lao động hiện có tên là Cục bảo hiểm lao động Bộ Lao động.
[6]Căn cứ vào công ước lao động quốc tế 128: Trợ cấp dành cho người tàn tật, người già và người thân lao động, Chương 5 tiêu chuẩn của việc tuân thủ chỉ trả định kỳ điều 26 quy định "Thanh toán định kỳ áp dụng" do số lượng của bất kỳ giảm trừ gia cảnh do sự gia tăng số tiền thanh toán nên được sáp nhập để đạt được phần này trong những tiêu chí để thanh toán của người thụ hưởng tai nạn nói trên được liệt kê trong bảng hoặc để duy trì tổng hộ gia đình thu nhập của trước khi tai nạn xảy ra, Và tỷ lệ phần trăm của bất kỳ khoản trợ cấp gia đình nào được trả cho người được bảo hiểm có cùng trách nhiệm gia đình với tư cách người thụ hưởng tiêu chuẩn. Trước khi người thụ hưởng hoặc để hỗ trợ quy tắc của gia đình phù hợp với việc tính toán được thu được, ví dụ như bảo vệ và hỗ trợ các gia đình hoặc những người chịu trách nhiệm theo đó các kết quả được phân loại một mức độ nhất định, phần trợ cấp sẽ được lấy từ các mức độ liên quan phát sinh từ việc đếm cơ bản. Phù hợp với quy định tại Điều 27 của Công ước, chẳng hạn như thanh toán định kỳ các quy định hiện hành của bài viết này, do sự gia tăng về số lượng phân phối cho bất kỳ thanh toán phụ cấp gia đình trong vụ tai nạn nên được sáp nhập để đạt được phần này của tai nạn trước đó liên quan đến bảng lương tiêu chuẩn cột, ít nhất là cho người lớn nói chung lao động nam tổng tiền lương, và vấn đề tỷ lệ thụ hưởng tiêu chuẩn của tổng số tiền của bất kỳ giảm trừ gia cảnh là những người bảo lãnh những trách nhiệm cùng gia đình. Việc tính toán tiền lương, các khoản thanh toán và bất kỳ khoản trợ cấp gia đình nào cho công nhân nam giới trưởng thành phải dựa trên cùng một tiêu chuẩn thời gian.
[7] Chung Bỉnh Chánh. “Nhận xét ngắn gọn về diễn giải giải thích của Chánh án số 596”, bao gồm trong Luật xã hội và Bảo vệ quyền cơ bản, trang 35-2-355, năm 2010.
[8] Theo luật người thân muốn lĩnh tiền tuất niên kim bảo hiểm lao động cần phải phù hợp điều kiện sau: 1. Chưa đạt mức tối thiểu của bảo hiểm cơ bản; 2. Thu nhập không đáp ứng được các yêu cầu về lương cơ bản tổi thiểu.
[9] Liêu Dục Tằng. bàn luận xem xét về các sự kiện pháp luật và vai trò của các Ủy viên, trang tự do bình luận, địa chỉ:
http://talk.ltn.com.tw/article/breakingnews/1634984; lần xem cuối ngày 03/05/2017
[10] “Hội thảo lần đọc thứ 2”. Dự thảo đã được Ủy ban kiểm tra hoặc dự thảo đã được đọc lần hai và Hội đồng viện lập pháp quyết định. Hội đồng đọc lần 2 là một môi trường tương đối quan trọng, là giai đoạn quyết định cho việc đi sâu thảo luận, sửa đổi, kiểm tra lại, xóa bỏ, thu hồi... Hội đồng đọc lần 2 quyết định nội dung cuối cùng của văn bản.